Với khái niệm ả đào và khái niệm geisha, hai dân tộc Việt – Nhật có chung một cách hiểu, đó là cách gọi biểu trưng cho cái đẹp, biểu tượng của văn hóa nghệ thuật dân tộc. Người Việt Nam hình dung geisha như một ả đào Nhật Bản, và có lẽ, để hiểu khái niệm ả đào, người Nhật sẽ cho rằng đó là geihsa Việt Nam.
Geisha (tiếng Nhật: nghệ giả - con người của nghệ thuật) là người nghệ sĩ vừa có tài ca múa nhạc, lại vừa có khả năng phục vụ nhu cầu văn hóa truyền thống Nhật Bản (trò chuyện, trà đạo, cắm hoa, thư pháp…). Trong lịch sử, geisha là một nghề khởi đầu là nam giới, song, do tính tất yếu của nghề nghiệp và tâm lý nhìn nhận của xã hội, người ta vẫn nghĩ geihsa là nữ nghệ giả.
Ả đào là tên gọi (cổ xưa nhất) đã có từ đời Lý Thái Tổ (TK XI), theo truyền thuyết về Đào thị có nhan sắc, giỏi ca hát được vua khen tặng, nên dân gian gọi ca nương hát ca trù là ả đào nhằm chỉ người con gái đẹp, hát hay.
Lịch sử hình thành của 2 loại hình nghệ thuật
Cũng như ả đào có tiền thân là con hát, ca nương (TK II trước CN), geisha khởi thủy với hai tiền thân là saburuko (cuối TK VII) nghĩa là người phục vụ và Shirabyoshi (TK XI) lúc đầu chỉ là tên một vũ khúc, về sau nó được đặt tên cho các cô gái thường biểu diễn vũ khúc này để phục vụ cho các võ sĩ (samurai).
Trong khi ả đào khai sinh liền với sự ra đời của ca trù từ TK XV thì mãi đến TK XVIII, geisha của Nhật Bản mới hình thành.
Vào năm những năm 1945, nghề ả đào suy tàn thì nghề geisha cũng tàn lụi khi Nhật Bản dốc toàn lực vào Thế chiến II, dù sau đó có được phục hồi, thời hoàng kim đã qua đi vĩnh viễn. Đội ngũ geisha lại thiếu vắng người kế cận khi Quốc hội Nhật Bản ban hành luật cấm thiếu nữ chưa tròn mười lăm tuổi học làm maikô (tức geisha tập sự). Thống kê năm 1980 cho biết cả nước Nhật còn đến 17.000 geisha hành nghề, đến nay chỉ vào khoảng 200, chủ yếu ở cố đô Kyoto.
Sự giống và khác nhau giữa 2 Geisha và Ả đào
Không gian của ả đào là giáo phường và ca quán. Giáo phường là trường dạy nhạc, ca quán là nhà hát, về sau các ca quán kiêm luôn chức năng vừa đào tạo vừa kinh doanh nghề hát như nhà geisha. Nhà geisha còn đặc biệt hơn ca quán ở chỗ, nó được xây dựng theo mô hình kiến trúc nhà Minh – dành riêng cho việc ăn chơi, hưởng lạc.
Các geisha tập trung hầu hết ở Kyoto, một cố đô với hình ảnh lặng lẽ, huy hoàng của một quá khứ, và thủ đô Tokyo với nhịp sống sôi động, ồn ào của xã hội công nghiệp. Các nàng sống tập trung tại một vài khu phố, người Nhật gọi là hanamachi (hoa nhai). Geisha thành phố (machi geisha) hoạt động tự do tại các buổi tiệc bên ngoài các khu phố giải trí, trong khi các geisha khu phố (kuruwa geisha) giải trí cho khách trong các buổi tiệc ở các khu phố giải trí.
Ca quán, cũng như nhà geisha, là không gian giải trí, không gian cảm hứng nghệ thuật, không gian làm việc (viết báo, xã giao, bàn việc kinh doanh…) của khách làng chơi. Không gian văn hóa geisha, cũng như không gian văn hóa ả đào, mang dáng dấp cung đình hơn dân dã, đó là không gian phòng, không có những tiết mục sôi động như ca vũ tạp kỹ. Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả đào chỉ dùng đôi phách tre, geisha ngoài cây đàn shanmisen còn dùng sáo trúc và mấy chiếc trống, trống nhỏ tsutsumi vác lên vai, trống nhỡ ôkawakê trên đùi, còn trống lớn taikô đặt cạnh người diễn.
Nhưng xét riêng từng khía cạnh, sự khác biệt cơ bản giữa ả đào và geisha là chủ thể văn hóa: một bên là văn hóa làng xã và văn hóa quý tộc phong kiến, còn một bên là văn hóa thị dân. Nguyên nhân là do sự khác biệt về giai cấp giữa ả đào và geihsa.
Ả đào xuất thân từ giai cấp nông dân. Trong sinh hoạt đời thường của con nhà nông, ả đào ban ngày làm ruộng vườn hoặc chăn tằm dệt vải. Đến tối họ tới giáo phường để luyện tập đàn hát do quản giáp và mấy ả đào già nhiều kinh nghiệm chỉ bảo.
Geisha xuất thân từ tầng lớp thị dân. “Con nhà gia thế sa cơ dấn thân vào chốn xa mã công khanh. Họ có giao ước với mụ chủ thời hạn làm việc, họ được tự do, không có một thế lực gì bắt họ phải theo ý muốn người khác được, ở phòng trà ấy, họ được giáo dục hoàn hảo”. Nhiều giesha nhận được sự nâng đỡ từ những gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu, các dòng họ nổi tiếng.
Từ khác biệt cơ bản trên, ta hiểu văn hóa ả đào có nguồn gốc từ văn hóa tín ngưỡng tôn giáo dân gian, từ một nghệ nhân chuyên hát thờ ở đình làng về sau mới trở thành một cô đầu chuyên phục vụ giải trí cho quý tộc, trí thức. Trong khi đó, văn hóa geisha chỉ thuần túy là văn hóa giải trí, không dính dáng gì đến tín ngưỡng tôn giáo.
Ả đào và geisha đều tương đồng ở chỗ cả hai có một đời sống văn hóa theo những quy phạm nhất định. Họ bị cấm ăn mặc khó coi, phải mặc cùng một kiểu trang phục, tóc chải theo một kiểu đồng nhất, chỉ phục vụ những nhóm khách vài ba người và không bị ép buộc phải tiếp người khách nào mà họ không thích. Được yêu quý, trọng vọng, nhưng theo quy luật của nghề nghiệp, họ phải chôn chặt những khát khao thầm kín, ngay cả tình yêu trong thế giới đầy chuẩn mực.
Vì đối tượng khách của ả đào và geisha đều là nam giới nên khi đề cập hai hình tượng này không thể không xét đến khía cạnh văn hóa giới – mối quan hệ nam và nữ nhìn từ văn hóa xã hội.
Ở đây có sự tương đồng về cấu trúc văn hóa giới, nếu ả đào luôn đi cạnh văn nhân Việt Nam thì geisha không thể tách rời võ sĩ Nhật, cũng như thiền sư và kỹ nữ nói chung. Cấu trúc này không có gì thay đổi về bản chất, chỉ thay đổi về hình thức danh xưng, văn nhân xưa kia là nhà nho, hiện đại là trí thức, văn nghệ sĩ được gọi chung là quan viên; khách của geisha trước đây là võ sĩ thì ngày nay là khách thượng lưu, gọi chung là người bảo trợ (danna)…
Ả đào
| |||
Ngoại hình
| Tiếp thu mỹ học Trung Hoa |
Xu hướng tự nhiên chân chất, mộc mạc nhưng sâu xa, ý vị
|
Xu hướng trau chuốt cầu kỳ, điêu luyện, khắc vàng, vẽ nét
|
Vẻ đẹp tổng quan |
Như tranh dân gian giản dị, cổ điển dễ gần
|
Như búp bê sứ
giả tạo, xa vời, xa xỉ
| |
Trang điểm |
Hài hòa, chỉnh chu
|
Công phu, cách điệu (hát tuồng, mặt nạ, tóc giả)
| |
Trang phục |
Áo dài và áo tứ thân ( bình dân)
| ||
Cử chỉ, điệu bộ |
Thụ động, ít động tác, ít dùng phi ngôn ngữ
|
Dịu dàng, uyển chuyển, mềm dẻo, nhiều động tác và phi ngôn ngữ
| |
Nội hình
| Đức tính |
Giỏi chịu đựng
|
Khéo chiều chuộng
|
Nhận thức |
Cảm tính
|
Lý tính, thực dụng
| |
Nghệ thuật
| Thể loại |
Đơn nhất: ca trù
|
Đa dạng: nhạc, thơ, văn, múa, trà đạo, cắm hoa, thư pháp…
|
Múa & nhạc cụ |
Giản tiện: múa bài bông, nhạc cụ: đôi phách
|
Phong phú: múa cây tùng, cây bách, anh đào… nhạc cụ: đàn, sáo, trống…
| |
Kỹ năng |
Chuyên sâu
|
Bao quát, tổng hợp
| |
Kết luận | Thiên về cái đẹp truyền thống | Kết hợp cái đẹp truyền thống và hiện đại, hơi đặc biệt, tạo sự thu hút, hiếu kỳ |
Hiện tại ở Việt Nam và Nhật Bản còn rất ít những ả đào và geisha thực thụ có được thành công như những gì mà tổ nghề của họ đã gây dựng nên. Thế giới văn hóa tao nhã của ả đào và geisha đang có xu hướng bị thu hẹp, ít mang tính truyền thống hơn để thay vào đó những hình thức giải trí phục vụ số đông. Cũng ít ai bận tâm đến văn hóa truyền thống của hai hình tượng này còn gì là bản sắc, có gì là tiếp biến văn hóa hay không. Chính vì vậy, nét sâu sắc, ý vị của ả đào và nét huyền bí của geisha cần phải được khai thác ở nhiều góc độ.
0 nhận xét:
Post a Comment